Grac, Phân loại rác, Quản lý rác thải, Tái chế tái sử dụng, Thương hiệu bền vững, Tin tức

So sánh Grac Green Point và MRFs sơ sở phục hồi tài nguyên truyền thống

So sánh Grac Green Point và MRFs sơ sở phục hồi tài nguyên truyền thống

Cơ sở Phục hồi Vật liệu (MRF), đôi khi còn được gọi là cơ sở thu hồi vật liệu hoặc cơ sở tái chế vật liệu, là một nhà máy chuyên biệt nhận, phân tách và chuẩn bị vật liệu tái chế để tiếp thị cho các nhà sản xuất cuối cùng.

MRFs thường được phân loại là “sạch” hoặc “bẩn,” tùy thuộc vào việc cơ sở có xử lý vật liệu được trộn với chất thải đô thị khác hay không.

  • Một MRF sạch chỉ xử lý tái chế đơn luồng dân cư hoặc thương mại; tức là, vật liệu tái chế mà bạn đặt vào thùng rác tái chế lề đường của mình. Tỷ lệ phục hồi tại một MRF sạch (tỷ lệ phần trăm vật liệu nhập vào một MRF sạch thực sự kết thúc được tái chế) được cho là cao hơn so với MRF bẩn.
  • Một MRF bẩn chấp nhận vật liệu, dù đã được tách biệt hay trộn lẫn, và phân tách, xử lý và lưu trữ chúng để sử dụng sau này như nguyên liệu cho việc tái chế và tái chế.

MRFs phân loại một loạt vật liệu tái chế, bao gồm nhưng không giới hạn: Nhựa, Bìa cứng, Giấy bao gồm báo, tạp chí, giấy văn phòng, giấy phức tạp, v.v., Chai và lọ thủy tinh, Đồ đựng kim loại, bao gồm lon nhôm và thép, Hộp carton.

Ở Hoa Kỳ, có hơn 300 cơ sở phục hồi vật liệu. Kích thước thị trường tổng cộng được ước tính là 6,6 tỷ đô la vào năm 2019. Khi càng nhiều thành phố và đô thị trên khắp Hoa Kỳ chuyển sang tái chế đơn luồng, vai trò của MRFs chỉ sẽ trở nên quan trọng hơn.

Cơ sở Phục hồi Vật liệu (MRF) hoạt động bằng cách nhận, phân loại và chuẩn bị vật liệu tái chế để tiếp thị cho các nhà sản xuất cuối cùng. Dưới đây là tổng quan chung về cách hoạt động của một MRF đơn luồng:

  1. Nhận: MRF nhận vật liệu tái chế đã được pha trộn hoặc tách biệt từ các chương trình thu gom từ lề đường, các điểm thu gom hoặc các trung tâm tái chế vệ tinh.
  2. Phân loại: MRF sử dụng sự kết hợp của các quy trình thủ công và tự động để phân loại các vật liệu. Điều này có thể bao gồm việc sử dụng băng tải, nam châm, dòng xoáy, máy phân loại quang học và phân loại thủ công để tách các loại vật liệu khác nhau.
  3. Chuẩn bị: Một khi các vật liệu đã được phân loại, chúng được chuẩn bị để tiếp thị. Điều này có thể liên quan đến việc đóng gói vật liệu thành các khối nhỏ gọn, nghiền vật liệu thành các mảnh nhỏ, hoặc chuẩn bị vật liệu theo cách khác để chúng có thể được vận chuyển và sử dụng dễ dàng bởi các nhà sản xuất cuối cùng.

Các quy trình cụ thể có thể thay đổi tùy thuộc vào MRF cụ thể và các loại vật liệu mà nó xử lý. Một số MRF cũng cung cấp các trung tâm thu gom nơi mà người dân mang vật liệu tái chế của mình và phân loại chúng vào các thùng khác nhau. Loại phân loại thủ công như vậy tạo ra một sản phẩm sạch hơn và có giá trị hơn.

Trong một hệ thống MRF sạch, vật liệu tái chế đi đến một cơ sở phục hồi vật liệu và rác thải đi đến bãi rác, hoặc có thể là một lò đốt hoặc nhà máy chuyển đổi rác thành năng lượng. Mặt khác, một MRF bẩn, còn được gọi là xử lý chất thải hỗn hợp (MWP), chấp nhận chất thải chưa được phân loại. Máy móc và nhân viên của cơ sở đều thực hiện công việc đó.

Các cơ sở Phục hồi Vật liệu (MRFs) đối mặt với một số thách thức tại Việt Nam, có thể giải thích tại sao chúng không phổ biến hơn:

  1. Thiếu nhu cầu địa phương liên tục cho nhựa tái chế qua tất cả các loại nhựa chính: Điều này có nghĩa là ngay cả khi nhựa được phục hồi và tái chế, có thể không có thị trường cho các vật liệu tái chế.
  2. Khoảng trống trong khả năng tái chế trong nước: Điều này liên quan đến khả năng của các cơ sở tái chế của quốc gia xử lý khối lượng chất thải được tạo ra.
  3. Nguồn cung không ổn định và có nguy cơ từ ngành công nghiệp không chính thức và dựa vào nhập khẩu phế liệu chất lượng cao: Điều này cho thấy rằng nguồn cung vật liệu tái chế không ổn định hoặc đáng tin cậy.
  4. Chất lượng nhựa tái chế thấp do thiếu tiêu chuẩn “thiết kế cho việc tái chế”: Điều này có nghĩa là nhiều sản phẩm không được thiết kế với việc tái chế trong tâm trí, làm cho chúng khó tái chế hiệu quả.
  5. Thiếu quyền truy cập vào tài chính cho các nhà tái chế: Điều này có thể khiến các cơ sở tái chế gặp khó khăn trong việc đầu tư vào thiết bị và cơ sở hạ tầng cần thiết.
  6. Thiếu hệ thống quản lý chất thải ưu tiên thu gom và tiêu hủy hơn là tái chế: Điều này cho thấy rằng trọng tâm hơn là loại bỏ chất thải thay vì tái chế nó.

Trong đại dịch COVID-19 đang diễn ra, những thách thức này đã được tăng cường dưới hình thức giảm cung cấp cho ngành công nghiệp tái chế do thay đổi mô hình tiêu dùng và giảm đáng kể nhu cầu đối với sản phẩm tái chế do giá dầu thấp và suy thoái kinh tế.

Tuy nhiên, có những nỗ lực để cải thiện tình hình. Ví dụ, Cơ sở Phục hồi Vật liệu tại Cù Lao Chàm là mô hình thử nghiệm về phân loại, phục hồi và tái chế chất thải cộng đồng. Nó bắt đầu với quy mô nhỏ với 30 hộ gia đình vào ngày 01 tháng 4 năm 2021, và tăng lên 120 hộ gia đình từ tháng 12 năm 2022. Sau gần hai năm hoạt động, hầu hết các giai đoạn phân loại, thu gom và xử lý đã được thực hiện theo quy trình đúng và đạt được một số kết quả tích cực. Một cơ sở MRF thứ hai đã được đưa vào hoạt động từ năm 2023.

Những sáng kiến này cho thấy rằng mặc dù MRFs có thể không phổ biến ở Việt Nam, nhưng có những nỗ lực để tăng cường sự hiện diện và hiệu quả của chúng. Sự thành công của những nỗ lực này sẽ phụ thuộc vào việc giải quyết các thách thức đã nêu trên.

Có một số giải pháp tiềm năng để tăng cường sự hiện diện và hiệu quả của các Cơ sở Phục hồi Vật liệu (MRFs) tại Việt Nam:

  1. Đầu tư nâng cấp MRFs: Cải thiện hiệu suất xử lý chất thải tại MRFs có thể giúp tăng tỷ lệ phục hồi nguồn lực. Ví dụ, MRF tại Cù Lao Chàm đã đầu tư vào máy nghiền-shredder chất thải để cải thiện chất lượng vật liệu đầu vào cho quá trình sản xuất phân hữu cơ.
  2. Đào tạo và giáo dục: Các buổi đào tạo về quy trình sản xuất và kỹ thuật có thể giúp cải thiện chất lượng sản phẩm hoàn thiện. Điều này có thể tăng cường việc thu gom vật liệu có thể tái chế và năng suất sản xuất của vật liệu tái chế.
  3. Đầu tư vào thiết bị: Đầu tư vào các máy móc như thiết bị khuấy và máy đo độ kiềm pH có thể giúp chuẩn hóa quy trình sản xuất. Điều này có thể cải thiện chất lượng sản phẩm hoàn thiện và tăng hiệu quả của quá trình tái chế.
  4. Chương trình thử nghiệm và ra mắt sản phẩm: Sau khi sản phẩm được thử nghiệm, các chương trình ra mắt dự kiến sẽ giới thiệu sản phẩm rộng rãi để tiếp cận nhiều người hơn. Điều này có thể giúp tăng cầu cho sản phẩm tái chế và thúc đẩy việc sử dụng MRFs.
  5. Thành lập thêm MRFs: Nhận biết được kết quả tích cực của mô hình MRF trong việc thúc đẩy việc phân loại và tái chế rác trong cộng đồng, cơ quan chức năng của xã Tân Hiệp đã hợp tác với Ban quản lý Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm, lắp đặt một MRF mới với sự hỗ trợ từ Dự án để xử lý chất thải tại chỗ cho cộng đồng làng Bãi Hương.
  6. Hợp tác với các tổ chức có địa bàn hoạt động: Hợp tác với các tổ chức có động lực và hoạt động theo địa bàn có thể giúp thúc đẩy các mô hình phục hồi, tăng cường lợi nhuận kinh doanh và phát triển nền kinh tế vòng. Điều này có thể giúp cầu nối giữa tầm nhìn về bền vững với các giải pháp.

Những giải pháp này cho thấy rằng mặc dù MRFs có thể không phổ biến ở Việt Nam, nhưng có những nỗ lực để tăng cường sự hiện diện và hiệu quả của chúng. Sự thành công của những nỗ lực này sẽ phụ thuộc vào việc giải quyết các thách thức đã nêu trên.

Giống nhau:

Related Posts